Subtotal: $0
Descriptions
PHONG UYÊN XIN TIẾP TỤC BÀN THÊM VỀ TRẦN ĐỨC THẢO, FREUD VÀ PHẬT GIÁO.
Trước hết tôi cảm ơn talawas đã cho tôi sống lại cái phong độ ngày xưa khi talawas là diễn đàn của những người ưa thích bàn luận về tư tưởng, triết học và đạo giáo. Tôi cũng xin trở lại với bạn Hồ Trung Tú và vài bạn khác về Trần Đức Thảo và về một vài điểm trong triết lí Phật giáo dưới mắt nhìn của một người chỉ biết Phật giáo qua sách vở phương Tây.
Hoàn toàn đồng ý với Hồ Trung Tú là triết học Phật giáo là một “chiến trường” đấu lý (chứ không đấu sức). Nếu không như vậy thì Phật giáo vẫn chỉ là một ngành của Ấn Độ giáo và giống như các đạo khác, chỉ cần đức Tin. Bởi vậy những điều chúng ta bàn ở đây là triết lí Phật chứ không phải là đạo Phật, nhất là đạo Phật nguyên thủy.
Tôi xin tuần tự trả lời Hồ Trung Tú từng điểm một:
1. Về Trần Đức Thảo và Hiện tượng luận
Tôi không khẳng định mà chỉ phản biện sự khẳng định “Trần Đức Thảo đã từ bỏ hiện tượng luận, ngả hẳn về phía duy vật biện chứng”. Tôi cũng chỉ phản ánh lại những bài của các triết gia Pháp nổi tiếng thời bấy giờ viết về Trần Đức Thảo.
Tôi xin nhắc lại là trước khi Trần Đức Thảo cho ra đời cuốn Phénoménologie et matérialisme dialectique, báo chí Pháp đã nói nhiều tới những cuộc tranh luận năm 1947 giữa Trần Đức Thảo với Alexandre Kojève, một triết gia trụ cột chuyên về Hệ tượng luận Tinh thần của Hegel (thày của Marx). Và năm 1948, khi Trần Đức Thảo viết bài “La phénoménologie de l’esprit et son contenu réel” (Hiện tượng luận tinh thần và nội dung thực sự của nó), chính Sartre đã tự mời Trần Đức Thảo tranh luận với mình. Theo các nhà triết học thời ấy, Trần Đức Thảo là người thắng cuộc. Sartre bị đuối lí quay ra nói xấu Trần Đức Thảo khiến Trần Đức Thảo tính kiện. Chính phủ Việt Nam hồi ấy khuyên bỏ kiện để lấy lòng Sartre đang bênh vực Việt Nam. Khi cuốn sách Hiện tượng luận và duy vật biện chứng ra đời, các nhà triết học danh tiếng hồi đó đều khen ngợi Trần Đức Thảo là người thuộc phái hiện tượng học độc nhất đã thành công trong việc kết hợp “nước với lửa”, duy tâm với duy vật, Hiện tượng học với Duy vật biện chứng. Nên biết là từ sau thế chiến thứ Hai, tư tưởng Marxiste (thật ra là Mácxít-Lêninít) toàn trị, khiến mọi trường phái triết học đều phải lấy Marx làm đầu tàu nếu không muốn bị coi là những tư tưởng tiểu tư sản. Thuyết hiện sinh khởi đầu là duy tâm, Sartre biến nó thành duy vật nên được nổi tiếng. Trần Đức Thảo là nhà hiện tượng học độc nhất đã thành công móc nối được con tàu Hiện tượng học của Kant, của Hegel, của Fichte, Husserl, Heidegger… vào đầu tàu Marx. Những từ ngữ “mê hồn” (fascination), loá mắt (ébloui) là do chính Derrida và Althusser đã thốt ra khen Trần Đức Thảo. Nếu còn ở lại Pháp, thuyết của ông kết hợp Hiện tượng luận với Duy vật biện chứng, sẽ có tầm quan trọng hơn cả thuyết hiện sinh của Sartre vì thật ra thuyết hiện sinh chỉ là một mặt của hiện tượng luận và Sartre, theo như Trần Đức Thảo kể lại sau cuộc tranh luận, chỉ muốn thuyết hiện sinh của mình “chung sống hoà bình” với học thuyết marxiste.
Tôi cũng đã đọc bài giới thiệu của Đỗ Lai Thúy và vài bài dịch Trần Đức Thảo của Phạm Trọng Luật. Tôi thú thực là trong bài dịch có những từ ngữ và những diễn tả quá tối tăm so với nguyên văn tiếng Pháp. Phải công nhận nhiều khi “dịch là cái hoạ”.
2. Những khái niệm của Husserl và của Duy vật biện chứng và ý niệm Nhân duyên
Tôi không có ý so sánh những khái niệm trong Hiện tượng luận Husserl và những ý niệm về hiện tượng theo nhà Phật. Tôi chỉ có ý nói là cái tôi thuần túy (ego cogito) của Husserl lấy kinh nghiệm hiện tượng làm điểm khởi đầu để đi đến bản chất thực sự (essences) của mọi sự vật. Trái lại Phật giáo đi ngược lại (ít nhất là theo phái Thiền): Phải loại bỏ ngay từ đầuPhật tính. Bởi vậy có thể nói Husserl và phái Thiền tuy đi ngược đường nhau nhưng có điểm gặp nhau là đều đi tìm Thực tại siêu nghiệm thuần túy mà Phật giáo gọi là Phật tính. mọi hiện tượng, mọi vọng tưởng chỉ là những hình tượng giả dối, những dạng xuất hiện của một thể tính do cái Tôi (Atman, ngã) tạo ra, mới có thể bằng trực ngộ đi đến bản chất thật sự của mọi sự vật gọi là
Trái lại Duy vật biện chứng cho mọi hiện tượng là những phản ánh của thực tại duy nhất có hiện hữu là thực tại vật chất. Hiện tượng là biểu hiện, là bức hình của thực tại vật chất. Chỉ khác là cái tôi “giai cấp”, (Trần Đức Thảo gọi theo tiếng Đức Klassenindividuum) làm thay đổi thực tại theo cái nhìn của mình, hệt như 2 người hoạ sĩ ở giai cấp khác nhau vẽ cùng một phong cảnh cày ruộng, nhưng người thì nhấn mạnh về cảnh thơ mộng của đồng ruộng, người thì nhấn mạnh về cảnh lam lũ của người cày ruộng.
Tôi không bàn thêm về vô ngã. Trong phần phản hồi có nhiều bạn uyên thâm hơn tôi đã giảng khá rõ ràng những khái niệm Vô minh, Vô giác, Vô ngã (anatman, vô tiểu ngã) trong triết học Đại thừa. Những khái niệm này đều thoát ra từ ý niệm “Không tính”, được hiểu như là không có tự tính, vừa chứa tất cả mọi hiện tượng, vừa xuyên suốt các trình tự phát triển sự vật. Nhưng cũng cái “Tính Không” này, theo Phật giáo nguyên thủy và các trường phái triết học Ấn độ, đặc biệt là trường phái Védanta, là cái Ngã nặng nề nhất đúng như anh Hồ Trung Tú đã nhận định. Và cái Ngã này cũng có tên là Tuệ giác, là Chân Như (Brahman) như anh Hoà Nguyễn đã nêu ra trong phần phản hồi. Suy rộng ra Brahman cũng là Niết bàn. Và ở điểm này,đạo Phật cũng hội ngộ với đạo Thiên Chúa vì Thiên đàng (Paradis) cũng là Chúa , là Tình thương của Chúa, là Tâm của Phật.
Cám ơn anh Hồ Trung Tú cho tôi được dịp nói lại điểm then chốt trong Phật giáo là hành tạo nghiệp. Hành đây không có nghĩa là những hoạt động (actes purs) của mọi động vật như đi lại, ngồi, đứng, ăn cơm, mà là một hành động có chủ ý (actes intentionnels) để thoả mãn cái tôi của mình (ăn ngon cho sướng miệng). Những hành động thúc đẩy bởi cái tôi đó (thật ra cái Tôi không có, chỉ là tìm tự mãn) là nguyên nhân của hậu quả sau này là Nghiệp (karma). Chính cái nghiệp (mình hay gọi là nghiệp chướng) sẽ định đoạt đời sống của mình trong vòng luân hồi. Theo tôi hiểu, “Vô minh sinh hành” là không sáng suốt tu luyện để tránh làm những hành động tạo ra cái nghiệp. Và cái nghiệp chứa đựng cái Khổ. Giác ngộ không phải là hiểu nỗi khổ mà là đã thấu hiểu những nguyên nhân tạo ra nỗi khổ.
Khi tôi nói trong câu “hành sinh Thức”, Thức không có nghĩa là “ý thức” (conscience) là vì tôi chỉ nói lại những gì tôi biết về Thiền Đạo: Trong tu Thiền cái cần phải vượt qua trước tiên là “Vô thức”. Khi tu hành đã đạt đến trình độ cao siêu thì cái chót cần phải vượt qua là Ý Thức. Như vậy là ngược lại với ý nghĩ của anh Hồ Trung Tú là Vô thức (Vô minh) có trước Thức. Đối với Thiền đạo (hay ít nhất là một phái Thiền), Vô thức và Thức cùng hiện hữu không có cái trước cái sau gì cả. Ở điểm này Thiền đã không hẹn mà gặp Freud. Như anh Kim Sinh nói, Khoa Phân Tâm học đã khám phá ra động cơ (mobile) của mọi hành động thoát thai từ bản năng (instincts) nằm trong tầng sâu nhất trong thân tâm con người là tầng “Vô thức” (Inconscient). Có những bản năng bị chi phối bởi tính dục (như con trai thích mẹ, con gái thích cha) có thể thúc đẩy đi tới những hành động vô luân nên hoặc bị đè nén hoặc được thay thế bằng 1 hành động thanh cao (sublimé) ở tầng trung gian là tầng “Tiềm thức” (Subconscient), trước khi được thể hiện và ghi nhận ở tầng “Nhận thức” (Conscient) dưới một chiêu bài “mỹ miều” (motif). Như vậy Vô thức là động cơ của một chiếc xe và Nhận thức là cái phanh của xe. Sự khám phá của Freud có tầm quan trọng trong y khoa ngang với thuyết Tương đối của Einstein trong khoa Vật lí học.
Tôi cũng xin nói thêm là trong triết học Tây phương Ý thức được định nghĩa là sự biết phân biệt chủ thể với vật thể khiến nhờ vậy mà biết tư duy. Ý thức (Conscience) như vậy khác nghĩa với Conscient (tôi tạm dịch là Nhận thức) trong Phân tâm học.
Tôi cũng xin thưa thêm với anh Hồ Trung Tú là tôi hơi biết về MRI và bộ não vì là nghề của tôi. Đó là 1 thứ chụp hình rọi kiến tinh vi coi bộ não có đưa ra hình ảnh bất thường nào không để chẩn bệnh chứ không thể thấy được những cái không có hình ảnh như tập tính, ý nghĩ con người.
Nói tóm lại tôi không khẳng định gì cả mà chỉ phản biện một vài định nghĩa về những khái niệm trong Thập nhị Nhân duyên được Hồ Trung Tú lấy ra chứng dẫn.
3. Hệ thần kinh có từ đâu, hay ý thức có từ hệ thần kinh hay linh hồn?
Đúng là có sự hiểu lầm. Khi tôi nói triết gia Trần Đức Thảo “phải xác định vô bằng chứng là hệ thần kinh tạo ra ý thức… thì quả là một sự quá miễn cưỡng”, là tôi muốn nói một triết gia chỉ hơn người ở chỗ dùng trí óc của mình để suy luận tạo ra lí thuyết là đủ, không cần phải chứng minh xác định gì cả. Bắt triết gia Trần Đức Thảo, không phải là một nhà khoa học, phải cóp nhặt trong sách sinh vật học, cơ thể học, cách đây hơn nửa thế kỷ nói về sự thành hình của hệ thần kinh trong mọi sinh vật, điều mà sinh viên y khoa năm thứ Nhất nào cũng biết, để khẳng định một sự hiển nhiên là ý thức (theo nghĩa y khoa) biểu hiện từ bộ não, thì đúng là một sự miễn cưỡng. Chính Trần Đức Thảo cũng đã tự nói trong một cuốn sách xuất bản năm 1991 ở Paris là có nhiều thiếu sót trong cuốn Tìm cội nguồn… Giáo sư khoa xã hội Đại học Aix-en-Provence, Trịnh Văn Thảo, nói trong cuốn Les compagnons de route de Hô Chi Minh (những người bạn đường của Hồ Chí Minh), là cuốn sách đó được nhồi nhét đầy những khẳng định của Lyssenko, Mitchourine, những nhà khoa học Liên Xô được tôn dương lên 9 tầng mây thời bấy giờ. “Ý thức” trong y khoa chỉ có nghĩa là còn tỉnh táo không ở tình trạng hôn mê như trong nhiều trường hợp chấn thương sọ não hay tai biến mạch não chẳng hạn. Y khoa không cần biết có ý thức, biết suy nghĩ, là có linh hồn hay không.
Tiện đây tôi cũng xin nhắc lại câu hỏi của anh Phụng Nghi là không biết Đức Phật khẳng định Ý thức (ý căn) ở tim hay ở bộ não. Theo tôi, Đức Phật không “duy vật” tới độ cho ý thức là một hocmon được tiết bởi tim hay bởi bộ óc mà có ý muốn nói, bản chất của Ý thức, dù được tạo từ tình cảm (tim) hay từ lí trí (óc), cũng chỉ là một hiện tượng cần phải vượt qua. Đường đi tới Chân Như là đường trực ngộ (intuition).
Khi tôi nói “những kinh nghiệm cận tử (có thể đọc trong Wiki) làm đặt lại câu hỏi về sự có một cái gọi là tinh thần có đời sống độc lập với bộ não không”, tôi không khẳng định gì cả. Phải đợi kết quả những thực nghiệm của các trung tâm nghiên cứu trên thế giới.
Tôi cũng xin lỗi là đã dịch “Réanimation” là “Hồi sinh”. Từ được dùng trong tiếng Việt hiện giờ là “Hồi sức” hoàn toàn khác nghĩa với Réanimation (Resuscitation).
Sở dĩ tôi phải chua những từ ngữ tiếng Pháp hơi nhiều trong bài viết này, một phần là vì những tác phẩm có giá trị của Trần Đức Thảo đều viết bằng tiếng Pháp, một phần là vì những tài liệu tôi thâu thập được cũng bằng tiếng Pháp.
Tôi cũng xin thêm là ở Âu Tây hầu như mỗi tuần có một cuốn sách nói về Phật giáo. Nhưng phần nhiều là sách của các thiền sư Tây Tạng được các học giả Phật giáo phương Tây dịch ra, hay là những sách nói về Phật giáo nguyên thủy (Tiểu thừa) khác với nghĩa Đại thừa Trung Quốc ra đời 1500 năm sau. Tiểu thừa nay gọi là Phật giáo Nguyên Thủy gần quan niệm Brahman Ấn độ hơn. Theo tôi nghĩ những sách Tây phương dịch từ tiếng Phạn có phần chính xác hơn là những sách dịch ra chữ Hán vì một lẽ dễ hiểu là tiếng Tây phương cũng như người Tây phương có nguồn gốc từ Ấn Độ (Người Indo-européens, Âu- Ấn). Những gì tôi biết về đạo Phật đều qua những sách này. Đặc biệt là cuốn Le moine et le philosophe (Ông thày tu và nhà triết học), kể lại những cuộc bàn luận giữa người con, tu sĩ Matthieu Ricard, tiến sĩ sinh vật học, cựu nghiên cứu viên viện Pasteur Paris, nay là thư ký riêng của Đức Đạt Lai Lạt Ma, và người cha là nhà triết học vô thần François Revel. Tôi thấy cũng cần phải phân biệt đạo Phật với triết học Phật. Đạo chỉ cần đức Tin. Triết học bắt buộc phải bàn cãi và sinh ra nhiều trường phái.
Duy tâm hay duy vật là tùy đức Tin của mỗi người. Đức Tin nằm ngoài mọi suy luận của lí trí nên không thể khẳng định bằng lí trí, hay chứng minh bằng khoa học, bằng thời gian được. Trước nay vẫn có xu hướng coi ai không suy luận theo duy vật biện chứng là duy tâm. Có những người không duy vật cũng chẳng duy tâm như tôi chẳng hạn.
© 2010 Phong Uyên
-----
Và trả lời của Hồ Trung Tú:
Bàn tiếp về VÔ MINH
Bàn tiếp về VÔ MINH
Về bài “Trần Đức Thảo và Phật giáo - Điểm gặp nhau bất ngờ” và những phản biện của tác giả Phong Uyên cùng các ý kiến đóng góp của nhiều bạn đọc khác, tôi nghĩ đã có thể khép lại, không phải là vấn đề đã “giải quyết” xong mà là không thể kết luận bất cứ điều gì ở cái chuyện mà suốt mấy ngàn năm qua con người vẫn chưa thể kết luận.
Nói đến đây tôi lại vẫn vơ suy nghĩ, tại sao mới chỉ có mấy ngàn năm con người “biết” suy nghĩ về Triết học mà không phải là hàng chục ngàn hoặc hàng triệu năm ? Điều đó có nghĩa gì nếu không phải là có “bước” chuyển tiếp từ thú qua người vì rõ ràng thú có lịch sử tồn tại dài hơn con người rất nhiều. Dĩ nhiên khi nói vậy là ta đã gián tiếp bỏ qua bàn tay của Thượng Đế, còn nếu như đó là ý Chúa thì khỏi phải bàn cãi bất cứ chuyện gì. Ý thức của con người từ đâu mà có, nếu là sản phẩm của Chúa thì không phải tốn giấy mực và thời gian để làm gì. Còn nếu như nó có điểm hình thành nào đó thì nó xứng đáng để chúng ta nghĩ đến nhiều hơn. Gạt qua một bên khái niệm về linh hồn, mà cho dù có linh hồn điều khiển ý nghĩ ta đi nữa thì chuyện ý nghĩ từ đâu hình thành, niệm khởi sinh từ đâu cũng vẫn cứ là câu hỏi cần đặt ra, tại sao “linh hồn nghĩ chuyện này mà không nghĩ chuyện khác”. Nếu tất cả đổ hết vào cái “thùng rác” nghiệp duyên (như Chúa tạo mọi chuyện) mà không cần giải thích thì cũng vẫn cứ còn câu hỏi, các ý nghĩ ngay trong đầu ta, sự giận dữ sợ hãi cũng ở ngay trong đầu ta mà ta không điều khiển được ? Nếu ai trả lời là được thì hãy thử trả lời xem giây phút sau ta sẽ nghĩ điều gì ắt sẽ biết câu hỏi “Niệm khởi sinh từ đâu” là quan trọng như thế nào.
Đặt một dấu nối giữa công trình “Tìm hiểu cội nguồn ngôn ngữ và ý thức” của Trần Đức Thảo với câu hỏi “Niệm khởi sinh từ đâu ?” của Phật giáo, chúng tôi kỳ vọng một bước làm sáng rõ vấn đề, thậm chí chỉ hy vọng một cách tiếp cận, một cách hiểu khoa học hơn những khái niệm luôn cần nhiều niềm tin của Phật giáo. Thế nhưng, có thể do hình thức diễn đạt, tôi đã không thuyết phục được nhiều người và còn bị quy cho cái tội là “âm mưu duy vật hóa Phật giáo”.
Như đã nói, vấn đề cần phải được khép lại, thế nhưng nhận thấy sự hào hứng đã tạo ra được là không dễ có; như bác Phong Uyên nói “cảm ơn talawas đã cho tôi sống lại cái phong độ ngày xưa khi talawas là diễn đàn của những người ưa thích bàn luận về tư tưởng, triết học và đạo giáo” tôi lại xin tiếp tục mà không theo một chủ đề hoặc mục tiêu đặt ra nào.
1/ Trần Đức Thảo và Phật giáo quả thật là không có điểm gặp nhau nào cả
Vâng, ngoại trừ một điểm duy nhất như đã nói, là ý nghĩ (xin không dùng từ ý thức vì dễ gây ngộ nhận đến các vấn đề triết học trong khi thực ra hai khái niệm này khác nhau không nhiều, ý thức không tồn tại độc lập mà luôn tồn tại dưới dạng một ý niệm, một ý nghĩ); ý nghĩ từ đâu mà có ? Nếu ý nghĩ có do các căn tiếp xúc với trần (các giác quan tiếp xúc với các dạng vật chất bên ngoài) thì câu trả lời vẫn nguyên đó, tại sao khi tiếp xúc với “trần” khác giới (giới tính) thì các ý niệm khởi sinh ở mỗi người phần tuyệt đại đa số là giống nhau và giống cả với hầu hết giống hữu tình hoặc động vật cấp thấp khác.
Bác Phong Uyên đặt vấn đề đi quá xa khi xét đến cái Tôi, cái Ngã của các trường phái triết học với Phật giáo khi nói về ý thức, trong khi tôi thực sự chỉ muốn nói các ý nghĩ, ý niệm khởi sinh không ngừng nghỉ, không bao giờ chịu ngừng nghỉ, trùng trùng liên tu bất tận, “tâm viên ý mã” (cái tâm như con khỉ, cái ý như con ngựa) ngay trong đầu ta, cái thứ ta tưởng là ta có thể làm chủ hoàn toàn nhưng thực tế lại điều khiển ta, ta hoàn toàn như một con rối trong tay nó, mà không tự biết.
Truy tìm ý nghĩ (ý thức) từ đâu mà có, Trần Đức Thảo quả thật đã bước một bước về mặt triết học rất gần đến những khái niệm thường xuyên được nói đến trong Phật giáo Đại Thừa: “Niệm từ đâu khởi sinh ?”, “Từ một niệm bất giác mà sinh ra sơn hà đại địa” hoặc xa hơn (dĩ nhiên cần nhiều chứng minh nhưng xin để sau) “Vạn pháp (tức mọi thứ trên đời từ vật chất đến tinh thần) đều do tâm tạo” của Phật giáo.
Tôi có thể dẫn ra đây hàng loạt các đường link các bài báo về nghiên cứu các hiện tượng tâm sinh lý của con người bằng máy chụp quét lớp cộng hưởng từ MRI bộ não người như: Tại sao bé gái thích màu hồng; tại sao con người ta sợ rắn; tại sao phụ nữ lại thích mua sắm; tại sao ngón trỏ đàn ông ngắn hơn ngón đeo nhẫn trong khi phụ nữ thì ngược lại; tại sao đàn ông lại thích phụ nữ thắt đáy lưng ong; tại sao phụ nữ lại thích đàn ông có khuôn mặt vuông hàm én; tại sao con người lại “thổn thức” khi chiều buông; tại sao ta lại bồn chồn khi gặp đèn đỏ... và tất cả đều được giải thích nguyên nhân sâu xa không phải là do tính cách, giáo dục, tâm lý riêng của mỗi người mà đó là “dấu vết” còn sót lại của tổ tiên con người sống trong môi trường mông muội hàng trăm triệu năm trước tồn tại trong bộ gen lưu truyền từ đời này qua đời khác; và nay vẫn điều khiển hành vi suy nghĩ của ta mà ta không tự biết.
Về mặt triết học, ngay từ giữa thế kỷ trước Trần Đức Thảo đã nhìn thấy tầm ý nghĩa của vấn đề để đến nay các sự khảo sát đời sống tâm lý của con người, khi đã có những công cụ hiện đại, mới bắt đầu tiếp cận thiết nghĩ cũng là một đóng góp lớn của Trần Đức Thảo cho khoa học.
Tại sao ta lại nhận ra cuốn Playboy dễ dàng giữa hàng ngàn cuốn tạp chí khác cùng bày trên kệ sách ? Bạn có biết cái ánh mắt nhìn của ta, hành vi ấy của ta là đã được “trui rèn” bởi cuộc sống, cuộc đấu tranh sinh tồn không hề dễ dàng của cha ông tổ tiên ta hàng trăm triệu năm trước, ngày nay ta thừa hưởng mà ta không tự biết ? Cái ý nghĩ, cái ý thức về cuốn Playboy ấy há không phải là chuyện đáng để chúng ta bỏ công tìm hiểu điểm nó khởi sinh, từ đó mà khởi sinh vạn pháp, hay sao ? Bảo rằng đó là kinh nghiệm của linh hồn ngàn đời thì không thể giải thích được nếu như kiếp trước ta là người giới tính khác ! Mà cứ giả sử như có “linh hồn” đi nữa thì “linh hồn điều khiển” thân ta như thế nào há không phải là chuyện cần phải bàn ư, vì đơn giản một điều rằng ý nghĩ quả thật là ở trong đầu ta và ta tạo ra nó rõ ràng kia mà ?
2/Về khái niệm Vô minh
Thật tiếc khi bác Phong Uyên đã nhận ra “Vô thức (tôi xin thêm Bản năng vào) là động cơ của một chiếc xe và Nhận thức là cái phanh của xe” nhưng lại trung thành với định nghĩa Nam tông khi bảo vô minh đơn thuần chỉ là sự không sáng suốt (trong nhận thức). Đặt dấu bằng giữa hai khái niệm Vô Minh và Bản Năng tôi biết không dễ được chấp nhận thế nhưng, ngay trong trước hợp này, bác Phong Uyên cũng đã cho thấy nếu thay thế từ Vô Minh cho các từ Vô thức, Bản năng (Vô minh là động cơ của một chiếc xe và ý thức là cái phanh của xe) ta sẽ có một bức tranh khá rõ ràng về đời sống tu tập của các hành giả Phật giáo cả Nam Tông lẫn Bắc tông. Nó rõ ràng về cả mục đích và phương pháp thực hành, rõ ràng cả mục tiêu để chế ngự lẫn mục tiêu chứng đắc.
Giận dữ là vô minh. Tại sao con người ta giận dữ ? Cần phải “nhớ lại” rằng chính nhờ sự giận dữ mà con người ta tồn tại. Hai con khỉ đực cùng trọng lượng, cùng tuổi, cùng sức khỏe nhưng con nào thể hiện sự giận dữ mạnh mẽ hơn thì con đó sẽ thắng và được quyền truyền giống để sinh ra ta hôm nay. Thậm chí mới chỉ cách đây chừng 100 năm thôi, khi hai đội quân cầm kiếm lao vào nhau thì người nào thể hiện sự giận dữ mạnh mẽ hơn, liều chết hơn thì người đó sẽ thắng và về nhà tiếp tục sinh con đẻ cái để ra ta hôm nay. Vì vậy, sự giận dữ đã được ưu tiên di truyền và nó thực sự cần thiết. Bác Phong Uyên đã rất đúng khi nói sự giận dữ như động cơ còn ý thức như chiếc phanh xe, sao bác lại không nhìn ra cái động cơ ấy nó có nguồn gốc từ vô thủy vô chung trăm, ngàn kiếp trước (có thể hiểu là đời sống trước) truyền lại đến ta và ta hôm nay ? Nếu nhìn ở góc độ này thì không thể có sự sáng suốt nào khả dĩ tiêu được chúng mà chỉ có thể kìm hãm (cái phanh) chúng khi chúng đã xuất hiện. Dùng hình tượng cái động cơ và cái “phanh” là ta hiểu bác Phong Uyên đã thiên về các pháp tu Nam tông, chung sống và chấp nhận cái động cơ điên khùng ấy bằng cái “phanh” của ý thức. Và cả thế giới này xây dựng nên cũng từ quan điểm này. Chỉ Thiền Tông thì không nghĩ vậy.
Cũng tương tự như vậy, mỗi hành vi nhỏ cho dù là tốt đẹp nhất của con người ta cũng đều bị sai xử bởi những bản năng (vô minh) xa xưa nào đó mà ta không tự biết (đằng sau một việc thiện là một cái ngã được vuốt ve để thỏa mãn bản năng dục tính hay sự cầu an bị chi phối bởi bản năng sinh tồn, trường tồn, bất tử). Vì vậy Đại thừa đã quả không sai khi bảo Thiện=Ác nếu nhìn ở góc độ điểm khởi sinh này và mục tiêu nhắm đến phá tan cái hầm khởi sinh tất thảy này
Vì vậy sự kết nối mà tôi đưa ra: Cái Ý thức mà ta tự hào là chỉ riêng con người mới có ấy tất thảy đều do Bản năng điều khiển của Freud và “Thức là do vô minh sanh” của kinh Thập nhị nhân duyên là quả thật có cơ sở và xứng đáng để chúng ta bỏ công sức vào đó nhiều hơn nữa.
3/ Về thuyết Duyên khởi
Nói thật với bác Phong Uyên , từ lâu nay với riêng tôi, 12 mối nhân duyên thực ra chỉ cần đến Danh Sắc là đủ.
Danh sắc theo tôi hiểu chính là sự hình thành của cái bản Ngã (“Danh” trong nghĩa của chữ “danh dự” ta sẽ hiểu nghĩa của cái Ngã ẩn chứa trong khái niệm danh sắc này).
Cách hiểu “12 điều kiện tương quan này chỉ là ý niệm dùng để giải thích nghiệp báo” là cách hiểu mặc định từ ngàn xưa đến giờ giúp con người nhận thức rõ hơn điều gì đó, có người bảo là sự luân hồi, tông phái khác thì bảo là hiểu về quy luật duyên sinh.
Tôi thì không nghĩ vậy, tôi đồ chừng rằng đây chính là “mô hình” hình thành ý thức, hình thành đời sống tinh thần; từ đó hình thành tính cách, hình thành số phận (gieo tính cách gặt số phận) của con người mà đức Bổn Sư của chúng ta đã đã phát hiện ra.
Nói đến đây tôi lại vẫn vơ suy nghĩ, tại sao mới chỉ có mấy ngàn năm con người “biết” suy nghĩ về Triết học mà không phải là hàng chục ngàn hoặc hàng triệu năm ? Điều đó có nghĩa gì nếu không phải là có “bước” chuyển tiếp từ thú qua người vì rõ ràng thú có lịch sử tồn tại dài hơn con người rất nhiều. Dĩ nhiên khi nói vậy là ta đã gián tiếp bỏ qua bàn tay của Thượng Đế, còn nếu như đó là ý Chúa thì khỏi phải bàn cãi bất cứ chuyện gì. Ý thức của con người từ đâu mà có, nếu là sản phẩm của Chúa thì không phải tốn giấy mực và thời gian để làm gì. Còn nếu như nó có điểm hình thành nào đó thì nó xứng đáng để chúng ta nghĩ đến nhiều hơn. Gạt qua một bên khái niệm về linh hồn, mà cho dù có linh hồn điều khiển ý nghĩ ta đi nữa thì chuyện ý nghĩ từ đâu hình thành, niệm khởi sinh từ đâu cũng vẫn cứ là câu hỏi cần đặt ra, tại sao “linh hồn nghĩ chuyện này mà không nghĩ chuyện khác”. Nếu tất cả đổ hết vào cái “thùng rác” nghiệp duyên (như Chúa tạo mọi chuyện) mà không cần giải thích thì cũng vẫn cứ còn câu hỏi, các ý nghĩ ngay trong đầu ta, sự giận dữ sợ hãi cũng ở ngay trong đầu ta mà ta không điều khiển được ? Nếu ai trả lời là được thì hãy thử trả lời xem giây phút sau ta sẽ nghĩ điều gì ắt sẽ biết câu hỏi “Niệm khởi sinh từ đâu” là quan trọng như thế nào.
Đặt một dấu nối giữa công trình “Tìm hiểu cội nguồn ngôn ngữ và ý thức” của Trần Đức Thảo với câu hỏi “Niệm khởi sinh từ đâu ?” của Phật giáo, chúng tôi kỳ vọng một bước làm sáng rõ vấn đề, thậm chí chỉ hy vọng một cách tiếp cận, một cách hiểu khoa học hơn những khái niệm luôn cần nhiều niềm tin của Phật giáo. Thế nhưng, có thể do hình thức diễn đạt, tôi đã không thuyết phục được nhiều người và còn bị quy cho cái tội là “âm mưu duy vật hóa Phật giáo”.
Như đã nói, vấn đề cần phải được khép lại, thế nhưng nhận thấy sự hào hứng đã tạo ra được là không dễ có; như bác Phong Uyên nói “cảm ơn talawas đã cho tôi sống lại cái phong độ ngày xưa khi talawas là diễn đàn của những người ưa thích bàn luận về tư tưởng, triết học và đạo giáo” tôi lại xin tiếp tục mà không theo một chủ đề hoặc mục tiêu đặt ra nào.
1/ Trần Đức Thảo và Phật giáo quả thật là không có điểm gặp nhau nào cả
Vâng, ngoại trừ một điểm duy nhất như đã nói, là ý nghĩ (xin không dùng từ ý thức vì dễ gây ngộ nhận đến các vấn đề triết học trong khi thực ra hai khái niệm này khác nhau không nhiều, ý thức không tồn tại độc lập mà luôn tồn tại dưới dạng một ý niệm, một ý nghĩ); ý nghĩ từ đâu mà có ? Nếu ý nghĩ có do các căn tiếp xúc với trần (các giác quan tiếp xúc với các dạng vật chất bên ngoài) thì câu trả lời vẫn nguyên đó, tại sao khi tiếp xúc với “trần” khác giới (giới tính) thì các ý niệm khởi sinh ở mỗi người phần tuyệt đại đa số là giống nhau và giống cả với hầu hết giống hữu tình hoặc động vật cấp thấp khác.
Bác Phong Uyên đặt vấn đề đi quá xa khi xét đến cái Tôi, cái Ngã của các trường phái triết học với Phật giáo khi nói về ý thức, trong khi tôi thực sự chỉ muốn nói các ý nghĩ, ý niệm khởi sinh không ngừng nghỉ, không bao giờ chịu ngừng nghỉ, trùng trùng liên tu bất tận, “tâm viên ý mã” (cái tâm như con khỉ, cái ý như con ngựa) ngay trong đầu ta, cái thứ ta tưởng là ta có thể làm chủ hoàn toàn nhưng thực tế lại điều khiển ta, ta hoàn toàn như một con rối trong tay nó, mà không tự biết.
Truy tìm ý nghĩ (ý thức) từ đâu mà có, Trần Đức Thảo quả thật đã bước một bước về mặt triết học rất gần đến những khái niệm thường xuyên được nói đến trong Phật giáo Đại Thừa: “Niệm từ đâu khởi sinh ?”, “Từ một niệm bất giác mà sinh ra sơn hà đại địa” hoặc xa hơn (dĩ nhiên cần nhiều chứng minh nhưng xin để sau) “Vạn pháp (tức mọi thứ trên đời từ vật chất đến tinh thần) đều do tâm tạo” của Phật giáo.
Tôi có thể dẫn ra đây hàng loạt các đường link các bài báo về nghiên cứu các hiện tượng tâm sinh lý của con người bằng máy chụp quét lớp cộng hưởng từ MRI bộ não người như: Tại sao bé gái thích màu hồng; tại sao con người ta sợ rắn; tại sao phụ nữ lại thích mua sắm; tại sao ngón trỏ đàn ông ngắn hơn ngón đeo nhẫn trong khi phụ nữ thì ngược lại; tại sao đàn ông lại thích phụ nữ thắt đáy lưng ong; tại sao phụ nữ lại thích đàn ông có khuôn mặt vuông hàm én; tại sao con người lại “thổn thức” khi chiều buông; tại sao ta lại bồn chồn khi gặp đèn đỏ... và tất cả đều được giải thích nguyên nhân sâu xa không phải là do tính cách, giáo dục, tâm lý riêng của mỗi người mà đó là “dấu vết” còn sót lại của tổ tiên con người sống trong môi trường mông muội hàng trăm triệu năm trước tồn tại trong bộ gen lưu truyền từ đời này qua đời khác; và nay vẫn điều khiển hành vi suy nghĩ của ta mà ta không tự biết.
Về mặt triết học, ngay từ giữa thế kỷ trước Trần Đức Thảo đã nhìn thấy tầm ý nghĩa của vấn đề để đến nay các sự khảo sát đời sống tâm lý của con người, khi đã có những công cụ hiện đại, mới bắt đầu tiếp cận thiết nghĩ cũng là một đóng góp lớn của Trần Đức Thảo cho khoa học.
Tại sao ta lại nhận ra cuốn Playboy dễ dàng giữa hàng ngàn cuốn tạp chí khác cùng bày trên kệ sách ? Bạn có biết cái ánh mắt nhìn của ta, hành vi ấy của ta là đã được “trui rèn” bởi cuộc sống, cuộc đấu tranh sinh tồn không hề dễ dàng của cha ông tổ tiên ta hàng trăm triệu năm trước, ngày nay ta thừa hưởng mà ta không tự biết ? Cái ý nghĩ, cái ý thức về cuốn Playboy ấy há không phải là chuyện đáng để chúng ta bỏ công tìm hiểu điểm nó khởi sinh, từ đó mà khởi sinh vạn pháp, hay sao ? Bảo rằng đó là kinh nghiệm của linh hồn ngàn đời thì không thể giải thích được nếu như kiếp trước ta là người giới tính khác ! Mà cứ giả sử như có “linh hồn” đi nữa thì “linh hồn điều khiển” thân ta như thế nào há không phải là chuyện cần phải bàn ư, vì đơn giản một điều rằng ý nghĩ quả thật là ở trong đầu ta và ta tạo ra nó rõ ràng kia mà ?
2/Về khái niệm Vô minh
Thật tiếc khi bác Phong Uyên đã nhận ra “Vô thức (tôi xin thêm Bản năng vào) là động cơ của một chiếc xe và Nhận thức là cái phanh của xe” nhưng lại trung thành với định nghĩa Nam tông khi bảo vô minh đơn thuần chỉ là sự không sáng suốt (trong nhận thức). Đặt dấu bằng giữa hai khái niệm Vô Minh và Bản Năng tôi biết không dễ được chấp nhận thế nhưng, ngay trong trước hợp này, bác Phong Uyên cũng đã cho thấy nếu thay thế từ Vô Minh cho các từ Vô thức, Bản năng (Vô minh là động cơ của một chiếc xe và ý thức là cái phanh của xe) ta sẽ có một bức tranh khá rõ ràng về đời sống tu tập của các hành giả Phật giáo cả Nam Tông lẫn Bắc tông. Nó rõ ràng về cả mục đích và phương pháp thực hành, rõ ràng cả mục tiêu để chế ngự lẫn mục tiêu chứng đắc.
Giận dữ là vô minh. Tại sao con người ta giận dữ ? Cần phải “nhớ lại” rằng chính nhờ sự giận dữ mà con người ta tồn tại. Hai con khỉ đực cùng trọng lượng, cùng tuổi, cùng sức khỏe nhưng con nào thể hiện sự giận dữ mạnh mẽ hơn thì con đó sẽ thắng và được quyền truyền giống để sinh ra ta hôm nay. Thậm chí mới chỉ cách đây chừng 100 năm thôi, khi hai đội quân cầm kiếm lao vào nhau thì người nào thể hiện sự giận dữ mạnh mẽ hơn, liều chết hơn thì người đó sẽ thắng và về nhà tiếp tục sinh con đẻ cái để ra ta hôm nay. Vì vậy, sự giận dữ đã được ưu tiên di truyền và nó thực sự cần thiết. Bác Phong Uyên đã rất đúng khi nói sự giận dữ như động cơ còn ý thức như chiếc phanh xe, sao bác lại không nhìn ra cái động cơ ấy nó có nguồn gốc từ vô thủy vô chung trăm, ngàn kiếp trước (có thể hiểu là đời sống trước) truyền lại đến ta và ta hôm nay ? Nếu nhìn ở góc độ này thì không thể có sự sáng suốt nào khả dĩ tiêu được chúng mà chỉ có thể kìm hãm (cái phanh) chúng khi chúng đã xuất hiện. Dùng hình tượng cái động cơ và cái “phanh” là ta hiểu bác Phong Uyên đã thiên về các pháp tu Nam tông, chung sống và chấp nhận cái động cơ điên khùng ấy bằng cái “phanh” của ý thức. Và cả thế giới này xây dựng nên cũng từ quan điểm này. Chỉ Thiền Tông thì không nghĩ vậy.
Cũng tương tự như vậy, mỗi hành vi nhỏ cho dù là tốt đẹp nhất của con người ta cũng đều bị sai xử bởi những bản năng (vô minh) xa xưa nào đó mà ta không tự biết (đằng sau một việc thiện là một cái ngã được vuốt ve để thỏa mãn bản năng dục tính hay sự cầu an bị chi phối bởi bản năng sinh tồn, trường tồn, bất tử). Vì vậy Đại thừa đã quả không sai khi bảo Thiện=Ác nếu nhìn ở góc độ điểm khởi sinh này và mục tiêu nhắm đến phá tan cái hầm khởi sinh tất thảy này
Vì vậy sự kết nối mà tôi đưa ra: Cái Ý thức mà ta tự hào là chỉ riêng con người mới có ấy tất thảy đều do Bản năng điều khiển của Freud và “Thức là do vô minh sanh” của kinh Thập nhị nhân duyên là quả thật có cơ sở và xứng đáng để chúng ta bỏ công sức vào đó nhiều hơn nữa.
3/ Về thuyết Duyên khởi
Nói thật với bác Phong Uyên , từ lâu nay với riêng tôi, 12 mối nhân duyên thực ra chỉ cần đến Danh Sắc là đủ.
Danh sắc theo tôi hiểu chính là sự hình thành của cái bản Ngã (“Danh” trong nghĩa của chữ “danh dự” ta sẽ hiểu nghĩa của cái Ngã ẩn chứa trong khái niệm danh sắc này).
Cách hiểu “12 điều kiện tương quan này chỉ là ý niệm dùng để giải thích nghiệp báo” là cách hiểu mặc định từ ngàn xưa đến giờ giúp con người nhận thức rõ hơn điều gì đó, có người bảo là sự luân hồi, tông phái khác thì bảo là hiểu về quy luật duyên sinh.
Tôi thì không nghĩ vậy, tôi đồ chừng rằng đây chính là “mô hình” hình thành ý thức, hình thành đời sống tinh thần; từ đó hình thành tính cách, hình thành số phận (gieo tính cách gặt số phận) của con người mà đức Bổn Sư của chúng ta đã đã phát hiện ra.
Vợ chồng Lucy, những chủ nhân trên mặt đất 2 triệu năm trước. Những bản năng nào trong họ vẫn còn chảy trong ta hôm nay
Và ta hãy xem lại:
- Khởi thủy là vô minh, u tối (tiếng Tây dịch là đui mù e không ổn vì đui mù vẫn có ý thức). Ở đâu không biết chứ ở trên trái đất này, không có sự sống thì không có tinh thần, không có hệ thần kinh. Không thể bảo đất đá là vô minh được. Chỉ khi sự sống hình thành, như con vi khuẩn chẳng hạn, đã nhận biết ánh sáng và điều kiện thức ăn để tìm đến và giao phối sinh sản thì lúc ấy mặt đất mới có chút đời sống thuộc về tinh thần. Để hiểu rõ chữ Vô minh có lẽ phải hình dung đến lúc trái đất có khủng long với một mặt đất đầy những tiếng gầm rú man dại của vô minh.
- Và từ cái vô minh ấy mà Hành hình thành, Tây Âu dịch là “kiến tạo tâm trí” , là hoàn toàn chính xác chứng tỏ người dịch đã hiểu vấn đề. Cái tâm trí được kiến tạo này hoàn toàn chưa có ý thức, như đời sống khá tình cảm các động vật có vú như linh trưởng, khỉ, chó, ngựa vậy.
- Và chính từ hệ thần kinh trung ương của các động vật có vú này mà con người hình thành. Sự hình thành đầu tiên chính là Ý THỨC.
- Nhận thức về thế giới, về cái chết, về sự sợ hãi vẫn chưa đủ để tạo nên một bản ngã nhiều tham muốn. Như trẻ con đã có ý thức nhưng cái Tôi vẫn chưa hình thành. Và từ đó mà Thức sanh nên DANH SẮC.
Theo tôi , khi có Danh Sắc, có bản ngã, có ý thức về bản thân con người sẽ tạo nên đủ thứ tham ái kinh khủng mà ta gọi là xã hội loài người hôm nay.
Nếu hiểu theo cách này ta sẽ thấy Phật Thích Ca quả thật vô cùng vĩ đại vì đã phát hiện ra cái quy luật hình thành đời sống tinh thần của con người, cái quy luật mà một nhà khoa học, một bác sĩ ở Âu Tấy như bác Phong Uyên cũng chưa hình dung hết.
Chính vì lý do này mà tôi làm một cái kết nối Trần Đức Thảo đến với Phật giáo.
Và đặc biệt, hơn bất cứ một nhà khoa học về thần kinh hoặc tâm lý, hoặc triết gia nào khác, chính từ cái nhìn vô cùng khoa học này về đời sống tinh thần của con người mà Phật Thích Ca đã chỉ cho ra con đường để thoát khổ. Đó chính là dùng THỨC để đi ngược lại phá tan hầm sâu vô thủy vô minh. Các bác có thể vào đây để xem vị trí của vô minh qua hình ảnh một bức tượng mà tôi đã hỏi nhiều vị sư mà vẫn không biết tên gọi là gì. Tôi đồ chừng rằng ngày xưa, người biết chữ ít, chỉ qua một cái hình vẽ hoặc bức tượng như thế này người đó đã có thể hiểu được vai trò vị trí của VÔ MINH mà hướng đến tu tập.
Đến đây các bác có thấy chữ “vô thủy vô minh” là chính xác đến độ khiến ta nổi gai ốc không ? Cái vô minh từ xa xưa, cái vô minh hồi các ADN ta thụ hưởng đây còn là giun là dế, còn là khủng long tranh nhau miếng mồi thối !
Cái vô minh ấy vẫn theo ta và điều khiển ta vậy hà cớ gì ta phải sống chung với nó mà không tìm cách phá tan nó đi ? Dùng thức để khắc chế ư ? Không bao giờ, Thức sinh sau, là lớp vỏ của bộ não, vô minh ở tầng sâu hơn, tầng mà giống nhau trong cấu tạo giải phẩu thân não của con người và con gà thì làm sao THỨC có thể với tới mà điều khiển nó ?
Vậy mà Phật giáo, theo cách hiểu của Thiền Tông lại làm được. Có dịp bàn thêm với các bác chuyện này
4/Về Tiểu thừa và Đại thừa:
Bác Phong Uyên và nhiều bạn đọc khác khi tham gia ý kiến phần lớn đều đứng trên quan điểm Phật giáo Nam Tông, còn tên gọi khác là Phật giáo Tiểu Thừa, vì, như bác Phong Uyên nói : “Đại thừa Trung Quốc ra đời 1500 năm sau” (tức sau Phật đến ngàn năm không tránh khỏi sự ngụy tạo hoặc xa lìa Phật giáo đích thực), hoặc “Theo tôi nghĩ những sách Tây phương dịch từ tiếng Phạn có phần chính xác hơn là những sách dịch ra chữ Hán vì một lẽ dễ hiểu là tiếng Tây phương cũng như người Tây phương có nguồn gốc từ Ấn Độ”, tuy không chính thức tuyên bố nhưng có thể hiểu ý bác Phong Uyên là Phật giáo Đại Thừa không đáng tin bằng Phật giáo Nguyên Thủy.
Lao vào tranh cãi điều này là lặp lại điều suốt hơn hai ngàn năm qua chưa kết thúc. Lập luận rất có lý của bác Phong Uyên ở trên vẫn không thể chối bỏ được điều cơ bản nhất mà chúng ta đã nêu ra từ đầu, đó là kinh Mười Hai Nhân Duyên. Đây là bộ kinh tất cả các nhà nghiên cứu đều công nhận là kinh do chính đức Phật Thích Ca thuyết giảng và hiện này tất cả các tông phái cả Nam Tông lẫn Bắc tông đều sử dụng, tuy chỉ có cách hiểu là khác nhau (như vậy là lý lẽ bản gốc gốc hoặc Đại Thừa ra đời sau đều không đứng vững bác Phong Uyên nhỉ :) )
Và theo cách hiểu về Vô Minh tôi vừa nói ở trên thì ta sẽ hiểu rõ hơn phương pháp tu tập của từng tông phái dựa trên cách hiểu và và thực hành bộ kinh này. Như bác Phong Uyên nói: “Theo tôi hiểu, Vô minh sinh hành là không sáng suốt tu luyện để tránh làm những hành động tạo ra cái nghiệp” thì đó là đại diện của cách hiểu và phương pháp tu tập của Nam Tông, dùng ý thức, dùng chiếc gương là Bát Chánh đạo (nhưng phương châm, như nội quy trong cuộc sống hằng ngày) để khắc chế vô minh, “phanh” cái “động cơ” (chữ bác Phong Uyên) vô minh để dần có cuộc sống trong sáng hơn, thanh tịnh hơn. Hoặc như cách hiểu của Bát Nhã “không có vô minh cũng không có hết vô minh” để đạt đến một trạng thái KHÔNG khó luận bàn của Phật giáo. Hoặc như cách hiểu của Thiền Tông, cũng trên cơ sở kinh 12 Nhân duyên, dùng ngay THỨC để đi ngược lại chỗ sinh ra THỨC, tức chỗ một niệm chưa sinh, chỗ nhất niệm vô minh để phá tan hầm sâu vô thủy vô minh.
Quả thật trong tất cả các cách hiểu và thực hành kinh 12 nhân duyên, theo cảm nhận riêng tôi thì cách hiểu của Thiền Tông là triệt để và “có vẻ” gần với ý chỉ Bổn sư nhất :)
Hãy thử hình dung, nếu tất cả các ý nghĩ của ta đều phải chui qua cái bộ lọc, cái filter của danh dự, trách nhiệm, ẩn đằng sau là các động cơ của tính dục, sợ hãi, sinh tồn, giận dữ thì quả thật các ý nghĩ của ta đã “ô nhiễm” ngay từ khi nó khởi sinh, chui ra khỏi đầu. Các bậc giác ngộ thì hầm sâu vô minh đã bị phá, các ý nghĩ không còn bị ô nhiễm nữa nên phải chăng vì thế mà trong các câu chuyện thiền, các giai thoại thiền, các công án thiền chúng ta thấy “họ” nhận ra tâm ai đó còn ô nhiễm hay không ô nhiễm chỉ với một vài câu nói. Sau khi hỏi Huệ Khả vài câu, nhận ra Huệ Khả đã chứng đắc, Bồ Đề Đạt Ma ấn chứng cho ông: “Tâm ông đó với tâm chư Phật không hai, không khác. Chớ có hoài nghi !”.
Kinh Kim Cang, một trong những bộ kinh lớn nhất và quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa đều mở đầu và kết luận bằng câu “Ngay trong thân này mà thấy là Phật thân” chúng ta hiểu quả thật có một sự thanh tịnh, trong trẻo, không bị ô nhiễm nào đó ngay trong từng ý nghĩ của mình nếu con người vượt qua được sự điểu khiển của Vô minh, tức Bản năng (theo cách hiểu của riêng tôi).
Cho đến bây giờ, theo tôi, chỉ có Thiền Tông là có đủ công cụ và phương pháp, cả pháp học lẫn pháp hành, để thực hiện điều đó.
Trên là những suy nghĩ quá mới, không dễ được thừa nhận và không thể “ăn tham” trong một bài viết 4 trang A4. Nhưng như trên đã nói, tôi nói như một sự tự do nhất mà mình có và không nhằm “âm mưu duy vật hóa Phật giáo” hoặc cổ xúy cho một phương pháp tu tập nào. Cách hiểu nào về kinh điển của Phật giáo cũng cần được hiểu một cách chính xác, chỉ duy nhất Thiền Tông cho đến nay là ít được hiểu một cách đầy đủ nhất, thậm chí có quá nhiều cách hiểu trái ngược nhau và cũng có nhiều ngộ nhận. Cố làm minh bạch điều này cũng là điều cần thiết của một đệ tử Thiền Tông như tôi vậy.
Nếu được, sẽ bàn tiếp với anh Phong Uyên về khái niệm Giác Ngộ, điều mà anh dành công sức khá nhiều trong bài vừa rồi, trong lần sau.
Hồ Trung Tú
Add a review