Trần Đức Thảo và Phật Giáo - Phản biện của Phong Uyên và trả lời của Hồ Trung Tú

Add a review
Price:

Descriptions


  TRẦN ĐỨC THẢO VÀ PHẬT GIÁO KHÔNG GẶP NHAU ĐIỂM NÀO CẢ
Trong mục “Tôn giáo. Tư tưởng” trên talawas ngày 4-2-2010, tác giả Hồ Trung Tú đưa ra luận điểm là có những điểm trùng hợp giữa những ý niệm của triết gia Trần Đức Thảo trong cuốn Recherches sur l’origine du langage et de la conscience (Những tìm kiếm về cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức) và những ý niệm trong Kinh “Thập nhị Nhân duyên” của đạo Phật. Luận điểm này khá độc đáo, khiến người biết ít nhiều về Trần Đức Thảo như tôi vội vã đọc lại Trần Đức Thảo, thử tìm kiếm coi giữa những quan niệm của nhà triết học lừng danh thế giới này và triết lý nhà Phật có những điểm nào có thể  coi là trùng hợp nhau không.

Tôi xin thú thực có ý nghĩ ngược lại là triết gia Trần Đức Thảo hoàn toàn xa lạ với Phật giáo. Có thể có sự hiểu lầm là vì những ý niệm triết học của Trần Đức Thảo viết bằng tiếng Pháp không được hiểu đúng nghĩa khi dịch ra tiếng Việt.
Tôi xin tác giả Hồ Trung Tú thứ lỗi phải phản biện những ý chính trong bài viết của tác giả:
1. Trần Đức Thảo không bao giờ “từ bỏ con đường Hiện tượng luận, ngả hẳn về phía chủ nghĩa duy vật biện chứng”
Tôi xin nhắc lại là cuốn sách đưa Trần Đức Thảo ngang hàng với các triết gia nổi tiếng nhất nước Pháp, nếu không muốn nói là cả thế giới thời bấy giờ như J.P. Sartre, L. Althusser, không phải là cuốn Những tìm kiếm về cội nguồn… xuất bản năm 1973 mà là cuốn Phénoménologie et matérialisme dialectique (Hiện tượng luận và duy vật biện chứng) xuất bản năm 1950. Cuốn sách này đã làm mê hồn (fascination) triết gia J. Derrida khi còn là sinh viên, và làm loá mắt ngay cả L. Althusser, ông thày Marxiste ngự trị Phố d’Ulm cả nửa thế kỷ. Sở dĩ như vậy là vì lần đầu tiên có một triết gia thuộc phái Husserl là Trần Đức Thảo đã thành công trong việc kết hợp hiện tượng luận của Husserl với duy vật biện chứng của Marx.
Cũng cần phải nhắc qua hiện tượng luận của Husserl là gì:
Theo Husserl, hiện tượng luận là phương pháp triết học mà cái “Tôi thuần túy” (Ego cogito) tìm cách, bằng kinh nghiệm thuần túy đã được gạn lọc bởi trực giác, xuyên qua những hiện tượng (hình thức biểu hiện) của những sự vật, để phát hiện ra những cấu trúc siêu nghiệm  của ý thức  và những bản chất (essences) của mọi sự vật.
2. Những khái niệm của Husserl và của duy vật biện chứng đều ngược lại với những ý niệm nhân duyên trong thuyết luân hồi của đạo Phật
Trong thuyết  Phật, mọi “hiện tượng” chỉ là hư ảo cần phải loại bỏ vì nó chỉ là những biểu hiện của những sự vật không có thật. Trái lại Husserl coi mọi hiện tượng đều là điểm khởi đầu trong sự đi tìm có ý hướng bản chất thuần túy của mọi thực tại. Duy vật biện chứng cũng coi những hiện tượng là có thật vì phản ánh mọi sự vật được tạo ra từ  vật chất, kể cả những sự vật có tính cách tinh thần.
Cái Tôi “giai cấp” của Marx cũng như cái Tôi “thuần túy” của Husserl đều  không có trong đạo Phật. Đạo Phật là Vô ngã.
“Vô minh” trong Thập nhị Nhân duyên không phải là “vô thức” (trước khi có ý thức) mà có nghĩa là không sáng suốt (minh) để thấu hiểu mối “Khổ”, tính chất căn bản của cuộc sống. “Hành” trong kinh Phật là làm những hành động tạo “Nghiệp” chứ không phải là có những hoạt động (activités) bắt buộc phải có của bất cứ sinh vật nào dù nhỏ bé tới đâu, kể cả những tế bào.
“Thức” đây không phải là “ý thức” (conscience) mà là cái kết quả  tốt xấu của Nghiệp, quy định sự  tái sinh trong vòng luân hồi.
Cũng cần nên biết là theo triết lí Phật mọi sự đều có nhân có quả và biến chuyển theo vòng luân hồi nên không có đầu có đuôi và bị khép kín. “Vô minh” là mối đầu mà cũng là mối cuối. Trái lại, triết học Tây phương kể cả biện chứng  lịch sử (lịch sử không bao giờ vòng trở lại, nghĩa là có chu kỳ như quan niệm về lịch sử của Tàu), luôn luôn cho là mọi sự đều  tiến triển theo đường thẳng, nên có sự tiến hoá, sự bành trướng và sự tiến bộ vô cùng tận. Quan điểm Marxiste vẫn còn mang nặng ý tưởng Chúa không ngừng Sáng tạo của Thiên Chúa giáo nên luôn luôn lạc quan về tương lai là vì vậy.
Nếu tác giả Hồ Trung Tú chịu khó đọc lại cuộc đời và những tác phẩm của Trần Đức Thảo, sẽ thấy thời kỳ có nhiều sáng tác có giá trị nhất là thời kỳ còn ở Pháp. Những tác phẩm viết tại Việt Nam chỉ là theo đơn đặt  hàng. Cuốn Những tìm kiếm về cội nguồn ngôn ngữ và ý thức chỉ là những thêm thắt của  những bài triết gia Trần Đức Thảo phải viết cho Tập san Đại học Sư phạm ngay từ số 1 năm 1955: Bài 1 “Nguồn gốc ý thức trong sự tiến hoá của hệ thần kinh”. Bài 2 “Biện chứng pháp của hệ thần kinh”.
Phải xác định vô bằng chứng là hệ thần kinh con người tiến hoá từ loài vật đã tạo ra ý thức và Biện chứng pháp có từ cách đây 2500 năm cũng ở hệ thần kinh mà ra, nghĩa là ở vật chất mà ra, thì quả là một sự quá miễn cưỡng đối với một triết gia. Những bài viết về hệ thần kinh của Trần Đức Thảo cách đây hơn nửa thế kỷ phần lớn là lấy lại từ  những sách về cơ thể học và phôi sinh học cho sinh viên y khoa năm thứ nhất còn để lại sau cuộc di cư năm 1954, và một phần là tài liệu tuyên truyền cho khoa học Liên Xô, nên đã quá lỗi thời, không thể là những “xác định quan trọng”, những bước “đi xa hơn” như ông Hồ Trung Tú nghĩ.
Sở dĩ cuốn sách này được Editions Sociales (Nhà Xuất bản Xã hội) của Đảng Cộng sản Pháp cho in năm 1973 sau Hội nghị Paris, là vì chính quyền hồi đó có ý nới tay cho Trần Đức Thảo có cơ hội tiếp xúc lại với giới trí thức thiên tả Paris luôn luôn bênh vực chính phủ Hà Nội thời đó, chứ không phải là vì tầm quan trọng của những công trình khảo cứu được trình bày trong cuốn sách này mà hiện nay chả còn ai biết đến.
Những năm gần đây, với sự tiến triển của khoa não bộ học, và khoa hồi sinh khiến có những trường hợp bị coi là chết vì bộ não không biểu lộ một hoạt động gì nữa lại được hoàn sinh. Những người “chết đi sống lại” này kể lại những kinh nghiệm của mình trong khi chết gọi là “kinh nghiệm cận tử” (Near Dead Experience, NDE) thấy mình bay khỏi xác, khiến những khẳng định là bộ não tạo ra tinh thần, tạo ra ý thức cần phải được xem xét lại. Có lẽ câu hỏi của ông Hồ Trung Tú “ý thức con người từ đâu mà có” sẽ tìm được câu trả lời.
Phong Uyên.
==============




Và trả lời của Hồ Trung Tú
Trần Đức Thảo và Phật giáo - thực sự có điểm gặp nhau !
(Để trả lời tác giả Phong Uyên)

Bài “Trần Đức Thảo và Phật giáo - Điểm gặp nhau bất ngờ” trên talawas của tôi đã được nhiều bạn đọc có ý kiến. Lẽ ra tôi không cần và không nên nói lại cho rõ hoặc thanh minh điều gì, đơn giản là vì những quan điểm tôi đưa ra không phải là chuyện có thể gói gọn trong một bài báo, nó cần rất nhiều những chứng minh, phân tích ở từng điểm một. Nó bị nhiều phản bác âu cũng là điều tất nhiên.
Đó là chưa nói lại đụng đến Phật giáo, một hệ thống triết lý mà ai thử bước vào các diễn đàn về Phật giáo trên mạng internet hiện nay sẽ thấy, đó là một “chiến trường” giữa các cánh hiểu khác nhau, các tông phái khác nhau, không hơn không kém. Không ai hiểu giống ai, mỗi người đều có cách hiểu riêng của mình đối với từng bộ kinh, và trong từng câu kinh Phật Thích Ca để lại. Một chút ví dụ: Phật tánh là một khái niệm vô cùng lớn của Phật giáo Bắc tông, thế nhưng Phật giáo Nam tông lại phủ nhận điều này;  Phật Thích Ca phủ nhận linh hồn nhưng nhiều tông phái lại khẳng định (giống như tác giả Phong Uyên đề cập ở trường hợp cận tử); và cụ thể hơn, kinh “Mười hai nhân duyên” tôi đã đề cập đến trong bài viết là có rất nhiều cách hiểu khác nhau: Có cách hiểu đây là hệ thống nghiệp duyên, tái sanh, luân hồi, nhân quả (thiên nhiều về khái niệm luân hồi), cũng lại có cách hiểu là mọi hiện tượng tâm lí và vật lí tạo nên đời sống đều nằm trong một mối liên hệ với nhau, chúng là nguyên nhân của một yếu tố này và là kết quả của một yếu tố khác, làm thành một vòng với mười hai yếu tố. Giáo lí duyên khởi được hiểu là: Nếu cái này tồn tại thì cái kia hình thành. Cái này phát sinh thì cái kia phát sinh. Cái này không tồn tại thì cái kia không hình thành. Cái này diệt thì cái kia diệt. Từ đó đưa đến nhận thức về giải thoát, hết khổ rồi hình thành lối sống Duyên diệt thì Pháp diệt.
Tuy nhiên cũng có một cách hiểu khác, đó là cách hiểu của Thiền Tông. Trong “Đại thừa tuyệt đối luận” và các cuốn “Hư vân ngữ lục” Thiền sư Hư Vân nói nhiều đến quan điểm nguồn gốc của ý thức chính là dô Vô minh sanh. Trong bài viết của mình, và trước đây là bài “Freud và Phật giáo”, tôi đã thử đặt vấn đề  thay khái niệm Vô minh trong Phật giáo bằng khái niệm Vô Thức, Bản năng trong tâm lý học hiện đại và thực sự nhận ra hai khái niệm này tương đồng một cách kỳ lạ nếu không nói chính là một, nó chỉ được diễn đạt bằng cái vỏ ngôn ngữ khác mà thôi. Và từ đó đã hình thành nên tông phái lớn của Phật giáo là Thiền Tông với mục tiêu “phá tan hầm sâu vô thủy vô minh”.
Hơn nữa, đi tìm điểm chung của hai quan điểm triết học “không đội trời chung” là duy tâm và duy vật tôi biết sẽ lại nhận những phản bác không dễ chịu, thế nhưng chút ánh sáng hiện ra le lói ở cuối đường hầm hình như đã quá sức thu hút, cho dù nhiều khi đó có thể chỉ là ảo giác.

Và tôi cũng xin lỗi tác giả Phong Uyên vì phải nói ngược lại những gì anh khẳng định như đinh đóng cột:

1/ Trần Đức Thảo không bao giờ “từ bỏ con đường Hiện tượng luận, ngả hẳn về phía chủ nghĩa duy vật biện chứng”
Nói thật đọc hết phân tích rất uyên thâm và hiểu biết sâu sắc của anh về Trần Đức Thảo chúng tôi vẫn không hiểu giai đoạn cuối Trần Đức Thảo có từ bỏ hiện tượng luận hay không. Không hiểu nhiều về Trần Đức Thảo, chỉ nhìn thấy điểm “hay ho” của triết gia này khi phân tích về nguồn gốc của ngôn ngữ và ý thức tôi đã liên tưởng đến quan điểm cội sinh của ý thức trong kinh Thập nhị nhân duyên qua cách hiểu của Thiền Tông, từ đó những mong gợi mở một cách hiểu, cách tiếp cận mới với những kinh sách nhà Phật đã bị bao phủ bởi quá nhiều luận giải trúng và không trúng suốt hơn hai ngàn năm qua. Vì vậy chuyện Trần Đức Thảo có từ bỏ hay không “từ bỏ con đường Hiện tượng luận, ngả hẳn về phía chủ nghĩa duy vật biện chứng” thực sự không phải là ý chính của bài viết. Đó chỉ là một ý từ bài giới thiệu của Đỗ Lai Thúy “ Trần Đức Thảo và cuốn Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức” mà tôi đã đọc khi tìm hiểu về tác phẩm này. Có thể tác giả Phong Lê đã không đồng ý với anh Đỗ Lai Thúy từ lâu và đây là dịp để anh nói lên quan điểm mình về chuyện này. Nếu vậy thì tôi vô can và xin nhắc lại, chuyện Trần Đức Thảo có ngã hẳn về phía chủ nghĩa Duy vật biện chứng hay không hoàn toàn không phải là “ý chính” của tôi trong bài viết và cả trong cách tôi trình bày như tác giả Phong Uyên khẳng định.

2/ Những khái niệm của Husserl và của duy vật biện chứng đều ngược lại với những ý niệm nhân duyên trong thuyết luân hồi của đạo Phật.
Khẳng định như vậy có vội quá không thưa anh ? Lịch sử văn minh nhân loại đã cho thấy nhiều trường hợp người ta đã “thống nhất” được các ý tưởng tưởng chừng như không đội trời chung kia mà ? Mong ước thống nhất các trường vật lý của A. Einstein tuy chưa thực hiện được nhưng ai cũng tin điều đó chỉ còn là vấn đề thời gian. Duy vật biện chứng và Phật giáo nhiều người đã nói đến các điểm tương đồng. Khái niệm duy tâm rõ ràng nhất của Phật giáo là câu trong kinh Lăng nghiêm “Nhất thiết vạn pháp do tâm tạo” thế nhưng cũng đã có cách hiểu rằng cái thế giới được phản ảnh trong ta nó “quan trọng” hơn nhiều lần cái thế giới khách quan không có con người !
Tác giả Phong Uyên nói: “Trong thuyết  Phật, mọi “hiện tượng” chỉ là hư ảo cần phải loại bỏ vì nó chỉ là những biểu hiện của những sự vật không có thật”. Có thật chắc chắn như vậy không, thưa anh ? Nếu thật vậy sao kinh Kim Cang lại có câu “Ngay trong thân này mà thấy là Phật thân”, và ngài Huệ Năng nói trong kinh Pháp bảo đàn: “Phật tánh ở trong chúng sinh (có thể hiểu ở ngay trong ta). Ai mà đi tìm Phật tánh không ở trong chúng sinh thì không khác gì người đi tìm lông rùa sừng thỏ”. Nếu có thời gian, và trước sau gì tôi cũng sẽ làm, tìm những dẫn chứng trong các kinh sách Phật giáo những điều đã khẳng định ngược lại với anh là các hiện tượng không hề là hư ảo và không cần phải loại bỏ như anh xác quyết.
Và, có phải thật “đạo Phật là Vô ngã” không thưa anh ? Kinh Duy Ma Cật nói: “Ngã với vô ngã bất nhị” thì khẳng định về Vô Ngã như anh liệu đã đúng chưa ? Và ngay trong kinh Bát nhã, cái câu nhiều người biết đến nhất là “sắc tức thị không không tức thị sắc” thì cũng có thể hiểu cái vô ngã ấy lại chính là cái Ngã nặng nề nhất ! Anh cãi chỗ này làm sao ?
Tùy hành giả, tùy mức độ công phu của hành giả, tùy vào sự miên mật mà Phật đã có nhưng lời dạy khác nhau cho từng người khác nhau. Vô ngã là để tu chứ không phải chân lý, đơn giản là vì trong kinh Đại niết bàn, Phật lại định nghĩ Niết bàn lại có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Như vậy đến lúc nào đó Ngã lại xuất hiện chứ không phải như anh khẳng định một cách chắc chắn rằng “đạo Phật là vô ngã” như một chân lý như vậy.

Bàn về “Vô minh” anh nói: “Vô minh” trong Thập nhị Nhân duyên không phải là “vô thức” (trước khi có ý thức) mà có nghĩa là không sáng suốt (minh) để thấu hiểu mối “Khổ”, tính chất căn bản của cuộc sống. Vậy thì “giác ngộ” chỉ là việc “hiểu” mối khổ, hiểu lời Phật dạy ? Vậy hà cớ gì ngài A-Nan, người thuộc hết lời Phật dạy, giản hay không thua Phật, hiểu kỹ lời Phật dạy nhưng chỉ được xem là bậc hữu học, vẫn cứ không được xem là người giác ngộ cho đến ngày sau khi Phật qua đời ngài mới thực sự “minh” sau một đêm công phu quyết liệt ? Không, tôi và cả tông phái Thiền Tông, nói rộng là Bắc tông, đều không tin, không đồng ý rằng  “Vô minh” chỉ là sự không hiểu điều sáng như anh khẳng định. “Vô minh” là nơi ý thức hoàn toàn vắng mặt chứ không phải là nơi ý thức không đủ hoặc chỉ là sự không hiểu biết. Đâu là nơi ý thức hoàn toàn vắng mặt ? Xin hãy nhìn vào chỗ, như Trần Đức Thảo nói trong công trình của mình, chỗ khi con người hoàn toàn chưa có ý thức. Xin hãy đọc lại các bài về khảo cổ, về tiến hóa hộp sọ người, về các công trình chụp quét lớp cộng hưởng từ (MRI) bộ não người mà hiện nay rất nhiều trường đại học ở Anh, Mỹ thực hiện khi nghiên cứu về tập tính, thói quen của con người ... để thấy rằng quả thật rất nhiều hành vi của ta lại được quyết định bởi những lý do có từ thời xa xưa, thời con người còn chưa có ý thức, hoàn toàn “hành” mọi việc bởi những quyết định từ bản năng sinh tồn.


Tác giả Phong Uyên nói: “Hành” trong kinh Phật là làm những hành động tạo “Nghiệp” chứ không phải là có những hoạt động (activités) bắt buộc phải có của bất cứ sinh vật nào dù nhỏ bé tới đâu, kể cả những tế bào. Thưa anh, “hành” nào tạo nghiệp và “hành” nào không tạo nghiệp vậy ? Động tác anh ăn cơm có tạo nghiệp không ? Như tôi hiểu, theo anh thì không. Thưa anh đã có công trình quét lớp não cho thấy hành động ăn của chúng ta, tại sao chúng ta ăn ngay cả không đói, thập chí rất no, chính là vì những ám ảnh chết đói có từ thời tiền sử mà con người thường xuyên đối diện. Và trước nữa, cuộc đấu tranh dành bữa ăn là cuộc đấu tranh thường trực và lâu dài nhất trong thế giới tự nhiên, có cả con người. Ý thức “miếng ăn là miếng tồi tàn” tuy được dạy dỗ và ý thức hiểu rất kỹ thế nhưng con người ta thường quên, không kể trong những tình huống ngặt nghèo mà ngay cả trong bữa tiệc buffet buộc ta phải lựa chọn trong hàng trăm món bày ra trước mặt. Lắng nghe sự lựa chọn của cơ thể mình ta sẽ thấy ý thức thường đi vắng trong những lúc ấy.
Động tác đi có tạo nghiệp không thưa anh ? Nhờ đi mà con người biết đứng thẳng lên làm người đó thưa anh. Vâng, theo tôi, bất cứ hoạt động nào bắt buộc phải có của bất cứ sinh vật nào dù nhỏ bé đến đâu, kể cả những tế bào, cũng đều tạo nghiệp, để từ đó tạo nên ý thức. Giả sử trái đất bị hủy diệt bởi hạt nhân hoặc thiên thạch thì anh có biết niềm hy vọng để trái đất hồi sinh, con người lại xuất hiện trên mặt đất, nằm ở đâu không ? Chính ở những vi sinh vật sôngsaau dưới lòng đất. Chúng sẽ tiến hóa và hàng trăm triệu năm sau sẽ lại có những con người mới xuất hiện như chúng ta đây vậy. Bất cứ sinh vật hoặc tế bào nào cũng phải “hành” vì một quá trình hàng trăm triệu năm đấu tranh sinh tồn để có mặt dưới ánh mặt trời hôm nay. Xin anh đừng đánh giá thấp điều đó.
Và tôi thực sự bất ngờ khi nghe anh nói: “Thức” đây không phải là “ý thức” (conscience) mà là cái kết quả  tốt xấu của Nghiệp, quy định sự  tái sinh trong vòng luân hồi. Thức, trong Phật giáo là một khái niệm khá thống nhất thuộc về “ngũ uẩn” (Sắc, thọ, tưởng, hành, thức), thuộc về đời sống tinh thần của con người. Tùy vào sự cảm nhận của giác quan mà ta có nhãn thức, nhĩ thức, thiệt (lưỡi) thức... tức là các cái biết về sự cảm nhận. Ở đây anh bỗng dưng nói Thức không phải là ý thức mà là kết quả tốt xấu của nghiệp, quy định sự tái sinh vòng luân hồi. Anh đã bỏ qua Thức của Ý căn rồi.
Thật ra, sau cái Thức mà ta hiểu là ý thức ấy, nhà Phật gọi là thức thứ 6, còn thức thứ bảy (Mạt na thức) và thức thứ tám (A lại da thức, người Tàu gọi là Tàng thức) nữa. Hai thức này chìm sâu và đi luân hồi. Vâng, nhiều kinh sách luận giải đã nói vậy, thế nhưng cũng đã có những cách hiểu khác, đó chính là những cái Thức mà ta đã thừa hưởng từ ông bà truyền lại. Tại sao tất cả mọi người không kể địa giới, văn hóa đều sợ rắn, gián, chuột ? Tại sao ta lại bị thu hút bởi người khác giới ? Thưa anh Phong Uyên, bằng máy chụp não MRI các nhà khoa học đã biết được rằng các cái sợ vô duyên, và thu hút tính dục ấy được lưu giữ trong hạch amidala nằm giữa não. (Mời anh xem thêm cuốn Bản năng con người (Human Instinct) của Robert Winston xuất bản ở Anh cách đây chưa lâu). Và tiếc thay, anh và tôi, cũng như bất cứ ai khác, sinh ra đã có cái hạch amidala ấy rồi và trong đó lưu giữ những “chương trình” khởi động đầu tiên cho con người như bộ boot của máy tính. Và nó hằng ngày vẫn điều khiển ta, các ý nghĩ mà ta có  đều đi qua cái bộ lọc ấy mà ta không tự biết.
Một câu trong kinh Lăng Già sẽ hé lộ cho ta một cách hiểu khác về giác ngộ cũng như vai trò của Tàng thức: Rồi đến khi nhận thấy tất cả các pháp đều chẳng có thật thì họ lại tưởng rằng Niết Bàn là cõi hư vô, nơi mọi căn trần, cảnh giới đều tiêu ma. Này Mahamati, họ không thức ngộ ra rằng Niết Bàn chính là sự tự giác thánh trí của tàng thức chuyển. Này Mahamati, phàm phu không hiểu được lời dạy của các Như Lai, hiện tại, quá khứ và tương lai, rằng tất cả thế giới ngoại tại đều chỉ là cảnh giới của tự tâm (ngoài tâm ra, không có một cảnh giới nào hết), nên họ cho rằng, ngoài tâm ra còn có một cảnh giới ngoại tại.
Ngoài tâm ra còn có cảnh giới vô hình của các linh hồn nữa ư , anh Phong Uyên ?

3/ Hệ thần kinh con người có từ đâu, hay ý thức có từ hệ thần kinh hay linh hồn ?
Không dám khẳng định hùng hồn ý thức có từ linh hồn, thế nhưng tác giả Phong Uyên cũng đã khẳng định điều ấy khi nói: “Phải xác định vô bằng chứng là hệ thần kinh con người tiến hóa từ loài vật đã tạo ra ý thức,... nghĩa là ở vật chất mà ra, thì quả là một sự quá miễn cưỡng đối với một triết gia”. Có nghĩa là, theo Phong Uyên, hệ thần kinh con người không phải là sự tiến hóa từ loài vậy để tạo nên ý thức, và sau đó tác giả tiếp tục đi “sâu hơn” về luận điểm này: Những bài viết về hệ thần kinh của Trần Đức Thảo là “lỗi thời” vì “phần lớn là lấy lại từ  những sách về cơ thể học và phôi sinh học cho sinh viên y khoa năm thứ nhất còn để lại sau cuộc di cư năm 1954, và một phần là tài liệu tuyên truyền cho khoa học Liên Xô, nên đã quá lỗi thời”. Và sử dụng cả những bằng chứng khoa học “Những năm gần đây, với sự tiến triển của khoa não bộ học, và khoa hồi sinh (có khoa này ư ?) khiến có những trường hợp bị coi là chết vì bộ não không biểu lộ một hoạt động gì nữa lại được hoàn sinh. Những người “chết đi sống lại” này kể lại những kinh nghiệm của mình trong khi chết gọi là “kinh nghiệm cận tử” (Near Dead Experience, NDE) thấy mình bay khỏi xác, khiến những khẳng định là bộ não tạo ra tinh thần, tạo ra ý thức cần phải được xem xét lại”. Để khẳng định rằng ý thức con người có từ linh hồn, cái chữ mà anh Phong Uyên cũng như nhiều nhà duy tâm khác đều không bao giờ “dám” đề cấp đến một cách trực tiếp.
Anh Phong Uyên kính mến, linh hồn  có hay không liệu có thể chứng minh bằng các trường hợp kinh nghiệm cận tử như anh nói ? Liệu bà Bích Hằng có được đem ra nghiên cứu để chứng minh về Linh hồn ? Theo tôi, đây là câu hỏi quá lớn và vượt ra ngoài bài viết mà tôi đề cập tới. Gói gọn ý thức chúng ta phần lớn xuất phát, và bị điều khiển từ những bản năng vô thức của tổ tiên loài người thời xa xưa tôi đã được sự ủng hộ chắc chắn của Khoa học với những bằng chứng muốn phản bác cũng không được. Còn  anh, một nhà duy tâm, tin vào linh hồn thì rõ ràng cho đến bây giờ ngoài niềm tin ra, những bằng chứng mà anh đưa ra ấy nó thật mong manh. Dựa vào cái niềm tin mong manh ấy anh phản bác tôi, e là điều hơi vội vàng, phải không thưa anh ?
Khẳng định duy tâm đúng hay duy vật đúng đã là điều vội vàng, nếu không nói là lặp lại chuyện quá cũ, thêm khẳng định cách hiểu Phật giáo của “ta” (ngã) là duy nhất đúng lại là một điều vội vàng khác, nếu không nói nó thiên về tôn giáo của niềm tin chứ không phải là tôn giáo hình thành từ sự suy nghiệm bản thân như Phật giáo.
Có dịp sẽ nói nhiều hơn với anh về chuyện bản chất duy vật trong khái niệm “vạn pháp do tâm tạo” của kinh Lăng Nghiêm. Một chuyện quá tréo nghoe và phi lý phải không, thưa anh ?
Hồ Trung Tú
(còn một lần đối thoại về Phật giáo nữa với Phong Uyên) 

Tham khảo: http://www.lien-hoa.net/Th%C3%A0nh+t%E1%BB%B1u...pdf

Similar Products

6275499093755393846

Add a review